ENZYME TIÊU HÓA

Administrator 01/08/2019
  Enzyme hay còn gọi là men là chất xúc tác sinh học có thành phần cơ bản là protein. Enzyme là một phần rất quan trọng đối với mỗi chúng ta, lưu ý đến chế độ ăn uống hợp lý, cung cấp, bổ sung thêm Enzyme để đảm bảo một cơ thể khỏe mạnh. Vì vậy hiểu biết về Enzyme sẽ giúp bạn bảo vệ sức khỏe tốt hơn.

ENZYME LÀ GÌ ?

 

Lịch sử phát triển:

  • Ngay từ cuối thể kỷ 17 và đầu thế kỷ 18, sự tiêu hóa thịt bằng các chất tiết ra từ dạ dày và sự chuyển hóa tinh bộ thành đường bởi các chất tiết ra ở thực vật và nước bọt đã được biết đến. Tuy nhiên, cơ chế của các quá trình vẫn chưa được xác định.
  • Năm 1833, Nhà hóa học Pháp Anselme Payen đã phát hiện ra Enzyme đầu tiên, diastase. Một vài thập niên sau, khi việc nghiên cứu lên men đường thành rượu bằng nấm men, Louis Pasteur đã đi đến kết luận rằng quá trình lên men được xúc tác bởi một yếu tố quan trọng có trong tế bào nấm men được gọi là "ferments", nó được cho là chỉ có chức năng trong các sinh vật còn sống. Ông đã viết rằng "lên men rượu là một phản ứng có liên quan đến đời sống và tổ chức của các tế bào nấm men chứ không phải là các tế bào chết.
  • Năm 1877, nhà vật lý học người Đức Wilhelm Kühne đã sử dụng từ Enzyme, trong tiếng Hy Lạp là ενζυμον, có nghĩa là "trong men", để miêu tả quá trình này.
  • Năm 1897, Eduard Buchner đã gởi bài báo đầu tiên về khả năng chiết xuất men từ các tế bào nấm men còn sống để lên men đường. Trong một loại các thí nghiệm tại Đại học Berlin, ông nhận thấy rằng đường được lên men thậm chí không có mặt các tế bào nấm men trong hỗn hợp. Ông đặt tên Enzyme lên men sucrose đó là "zymase". Năm 1907, ông đã nhận được giải Nobel hóa học "cho nghiên cứu sinh hóa của ông và phát hiện của ông về sự lên men không có tế bào". Theo sau ví dụ của Buchner, các Enzyme thường được đặt tên theo phản ứng mà nó diễn ra. Đặc biệt, để đặt tên cho một Enzyme, cần phải thêm tiếp vị ngữ -ase vào tên của chất nền (như lactase là Enzyme phân giải lactose) hay loại phản ứng (như DNA polymerase tạo ra các polymer DNA)

 

Định nghĩa Enzyme:

  • Enzyme là những xúc tác sinh học có bản chất là protein. Nó xúc tác cho hầu hết các phản ứng chuyển hóa xảy ra trong cơ thể sống. Dưới tác dụng của các Enzyme tiêu hóa, thức ăn được phân rã trở thành dạng nhũ tương để nhung mao ruột có thể dễ dàng hấp thu vào máu, nuôi dưỡng cơ thể.
  • Enzyme tiêu hóa được tiết ở nhiều bộ phận trong hệ thống tiêu hóa và có vai trò chức năng riêng.

+   Tuyến nước bọt tiết Enzyme maltase, amylase … giúp tiêu hóa tinh bột.

+   Dạ dày tiết dịch vị và men pepsin giúp tiêu hóa chất đạm.

+   Dịch gan, mật giúp tiêu hóa chất béo.

+   Tuyến tụy tiết dịch tụy để hoàn chỉnh việc tiêu hóa thức ăn ở ruột non.

 

Phân loại Enzyme:

  • Theo chức năng, Có 2 loại Enzyme chính là:
  1. Enzyme chuyển hóa sản sinh trong các tế bào. Các loại Enzyme chuyển hóa sẽ giúp cơ thể tổng hợp năng lượng và sử dụng năng lượng. Những năng lượng này rất quan trọng cho cơ thể vì chúng sẽ giúp chúng ta suy nghĩ, hít thở, chuyển động...
  2. Enzyme tiêu hóa tiết ra trong tuyến nước bọt, dạ dày, tuyến tụy và ruột non. Các loại Enzyme tiêu hóa do trong bộ máy tiêu hóa sinh ra nhằm giúp cơ thể tiêu hóa thực phẩm. Enzymes tiêu hóa (bao gồm 5 Enzyme Protease, Amylase, Lactase, Cellulase, Lipase).
  • Ngoài các Enzyme do cơ thể sinh ra còn các Enzyme có sẵn trong thức ăn của người, thường trong rau củ quả, có chứa sẵn Enzyme của riêng chúng. Khi vào cơ thể, các loại Enzyme này chỉ cần được “kích hoạt” bằng cách nhai các loại thực phẩm kể trên, vì vậy những loại thực phẩm này tiêu hao các loại Enzyme tiêu hóa của cơ thể ít hơn, đồng thời giúp cơ thể tiết kiệm được năng lượng.

 

Tính chất của Enzyme:

  • Enzyme có bản chất là protein nên có tất cả thuộc tính lý hóa của protein. Đa số Enzyme có dạng hình cầu và không đi qua màng bán thấm do có kích thước lớn.
  • Tan trong nước và các dung môi hữu cơ phân cực khác, không tan trong ete và các dung môi không phân cực.
  • Không bền dưới tác dụng của nhiệt độ, nhiệt độ cao thì Enzyme bị biến tính. Môt trường axít hay bazơ cũng làm Enzyme mất khả năng hoạt động.
  • Enzyme có tính lưỡng tính: tùy pH của môi trường mà tồn tại ở các dạng: cation, anion hay trung hòa điện.
  • Enzyme chia làm hai nhóm: Enzyme một cấu tử (chỉ chứa protein) như pepsin, amylase... và các Enzyme hai cấu tử (trong phân tử còn có nhóm không phải protein). Trong phân tử Enzyme hai cấu tử có hai phần:
  1. ApoEnzyme: phần protein (nâng cao lực xúc tác của Enzyme, quyết định tính đặc hiệu)
  2. CoEnzyme: phần không phải protein (trực tiếp tham gia vào phản ứng Enzyme), bản chất là những hợp chất hữu cơ phức tạp.

 

Vai trò của Enzyme trong quá trình chuyển hóa vật chất:

  • Nhờ Enzyme mà các quá trình sinh hóa trong cơ thể sống xảy ra rất nhạy với tốc độ lớn trong điều kiện sinh lí bình thường. Khi có Enzyme xúc tác, tốc độ của một phản ứng có thể tăng hàng triệu lần. Nếu tế bào không có các Enzyme thì các hoạt động sống không thể duy trì được vì tốc độ của các phản ứng sinh hoá xảy ra quá chậm.
  • Tế bào có thể điều hòa quá trình chuyển hoá vật chất thông qua điều khiển hoạt tính của các Enzyme bằng các chất hoạt hoá hay ức chế. Các chất ức chế đặc hiệu khi liên kết với Enzyme sẽ làm biến đổi cấu hình của Enzyme làm cho Enzyme không thể liên kết được với cơ chất. Ngược lại, các chất hoạt hoá khi liên kết với Enzyme sẽ làm tăng hoạt tính của Enzyme.
  • Ức chế ngược là kiểu điều hoà trong đó sản phẩm của con đường chuyển hoá quay lại tác động như một chất ức chế, làm bất hoạt Enzyme xúc tác cho phản ứng ở đầu của con đường chuyển hoá.
  • Khi một Enzyme nào đó trong tế bào không được tổng hợp hoặc tổng hợp quá ít hay bị bất hoạt thì sản phẩm không những không được tạo thành mà cơ chất của Enzyme đó cũng sẽ bị tích luỹ lại gây độc cho tế bào hoặc có thể được chuyển hoá theo con đường phụ thành các chất độc gây nên các triệu chứng bệnh lí. Các bệnh đó ở người được gọi là bệnh rối loạn chuyển hoá.

 

Vai trò của Enzyme trong cơ thể người:

  • Con người chỉ có một số lượng men tiêu hóa giới hạn và chất lượng cuộc sống của chúng ta sau này ra sao phụ thuộc vào việc chúng ta đã bảo quản nguồn tài nguyên đó như thế nào. 
  • Nếu chúng ta ăn những thực phẩm đã bị mất gần hết Enzyme thì cơ thể phải làm việc nhiều hơn để sản xuất ra Enzyme bù lại để hỗ trợ cho hệ tiêu hóa tiến hành đồng hóa chất trong thực phẩm đó. Quá trình sản xuất Enzyme liên quan chặt chẽ đến quá trình tiêu hóa và nó tiêu tốn một lượng năng lượng lớn. Khi tiêu thụ thức ăn thiếu Enzyme, các Enzyme trong cơ thể sẽ phải hoạt động hết công suất. Các mô như não, tim, phổi, thận, gan và cơ sẽ không nhận đủ lượng Enzyme chúng cần để hoạt động bình thường.
  • Thiếu hụt Enzyme chuyển hóa là nguyên nhân chính dẫn đến phần lớn chứng bệnh như bệnh tim mạch, bệnh ung thư, tiểu đường và các bệnh mãn tính khác.

 

Cơ chế tác dụng của Enzyme tiêu hóa đối với trẻ biếng ăn:

  • Trẻ nhỏ với hệ tiêu hóa chưa phát triển hoàn chỉnh là đối tượng hay gặp rắc rối nhất về đường tiêu hóa. Các Enzyme tiêu hóa được tiết ra ít, chưa đủ để thức ăn được tiêu hóa hoàn toàn. Điều này gây ra tình trạng rối loạn tiêu hóa với các triệu chứng như bị đầy hơi, chướng bụng, ăn vào lại ói ra, ăn không tiêu dẫn đến biếng ăn. Ngoài ra, khi các chất glucid, protid, lipid không được hấp thụ hết sẽ dẫn đến hiện tượng trẻ tiêu chảy, đi ngoài phân sống.
  • Vì vậy, việc bổ sung Enzyme tiêu hóa cho trẻ biếng ăn, rối loạn tiêu hóa là cần thiết. Khi trẻ được sử dụng Enzyme tiêu hóa, thức ăn sẽ nhanh chóng được phân rã thành dạng nhũ tương để ruột hấp thu các chất dinh dưỡng, làm trống ống tiêu hóa, tạo cho trẻ cảm giác nhanh đói, thèm ăn, không còn cảm giác khó chịu do đầy hơi, chướng bụng, thức ăn không tiêu. Một số trẻ thường xuyên bị trớ mà có nguyên nhân do giảm tiết Enzyme thì sử dụng Enzyme tiêu hóa cũng cho kết quả tốt.

 

Sử dụng Enzyme tiêu hóa như thế nào?

  • Khi trẻ biếng ăn ngoài việc tìm các nguyên nhân thực thể để điều trị, có thể dùng Enzyme tiêu hóa để giúp trẻ tiêu hóa tốt thức ăn, kích thích ăn ngon miệng, giảm tình trạng biếng ăn, phòng chống chứng biếng ăn, khó tiêu, đầy bụng, nôn trớ.
  • Khi trẻ được sử dụng Enzyme tiêu hóa, thức ăn sẽ nhanh chóng được phân rã thành dạng nhũ tương để ruột hấp thu các chất dinh dưỡng, làm trống ống tiêu hóa, tạo cho trẻ cảm giác nhanh đói, thèm ăn, không còn cảm giác khó chịu do đầy hơi, chướng bụng, thức ăn không tiêu.
  • Sau khi trẻ đã ăn tốt hơn, hệ thống tiêu hóa của cơ thể tự điều chỉnh tiết ra các men tiêu hóa ở mức phù hợp với ngưỡng ăn mới của trẻ và một số dịch khác ngoài men. Nên dùng Enzyme tiêu hóa theo đợt khoảng 10 ngày theo hướng dẫn sử dụng của nhà sản xuất. Một số trường hợp, trẻ bị những bệnh bẩm sinh về ruột, tụy, dạ dày, bị teo mật, suy gan và sau khi phẫu thuật các bộ phận trên có thể cần sử dụng kéo dài theo chỉ định của bác sĩ.

 

Tuổi tác và các nguồn cung cấp Enzyme:

  • Khi chúng ta có tuổi, cơ thể sẽ dần dần mất khả năng sản xuất Enzyme, và giảm dần theo chu kỳ mười năm. Lúc đầu, có thể bạn không nhận ra sự khác biệt, nhưng dần dần, bạn sẽ nhân ra rằng cơ thể bạn đang thiếu hụt Enzyme khi bạn có các cảm giác mệt mỏi, dị ứng và khó tiêu như ợ nóng, đầy bụng sau khi ăn, rồi bạn có thể sẽ bị táo bón và thậm chí viêm loét dạ dày. 
  • Vậy thay vì tiêu xài nguồn tài nguyên Enzyme sẵn có, các bạn có thể bổ sung nguồn Enzyme của mình bằng các loại thực phẩm có chứa Enzyme như  dứa, xoài, kiwi, nho, trái bơ, mật ong nguyên chất, phấn hoa, sản phẩm từ sữa, nấm nước, nấm sữa, nước ép cỏ lúa mì, nước dừa …., đồng thời bổ sung chế độ dinh dưỡng nhiều thực phẩm tươi ngon. Hạn chế ăn các đồ ăn nấu quá chín hoặc cháy, đồ ăn đã qua xử lý mất các chất dinh dưỡng.

 

Phân biệt với men vi sinh (men tiêu hóa):

 

Men tiêu hóa là các Enzyme tiêu hóa do chính các tuyến trong cơ thể tiết ra để tiêu hóa và hấp thu thức ăn. Thông thường, các Enzyme tiêu hóa có mặt trong dạ dày, nước bọt và sản phẩm của tuyến tụy nhằm bổ sung hỗ trợ quá trình tiêu hóa thức ăn.

Men vi sinh là các sản phẩm có chứa các vi sinh vật có ích, được sử dụng thông qua đường uống nhằm cải thiện sự cân bằng của hệ vi khuẩn đường ruột, sản sinh ra các Enzyme tiêu hóa, vitamin và chất có hoạt tính kháng khuẩn, giúp tiêu hóa thức ăn và hấp thu tối đa các chất dinh dưỡng.

 

  • Trong ống tiêu hóa có 3 nhóm vi khuẩn chính:

+   Loại có hại (trực tiếp gây bệnh)

+   Loại cơ hội (chờ yếu tố phối hợp để gây bệnh)

+   Vi khuẩn có lợi, đóng vai trò tích cực trong quá trình tiêu hóa.

  • Khi trẻ phải sử dụng kháng sinh kéo dài, vi khuẩn có lợi rất dễ bị tiêu diệt, dẫn tới trạng thái mất cân bằng do loạn khuẩn ruột.
  • Men vi sinh là các chế phẩm vi sinh chứa các loại vi khuẩn lành tính được đưa vào ruột để bù đắp, lập lại sự cân bằng, giúp ổn định môi trường trong ruột. 
  • Men vi sinh được chỉ định dùng sau khi trẻ vừa điều trị kháng sinh dẫn đến rối loạn tạp khuẩn, biểu hiện ở việc đi ngoài phân sống, tiêu chảy, khó tiêu, trướng bụng.
  • Nhiều sản phẩm men vi sinh chứa lượng vi khuẩn cao nên khi sử dụng phải tuân theo liều lượng chỉ dẫn của nhà sản xuất. Những trường hợp men vi sinh sử dụng chủng vi sinh vật không thường trú trong ruột như dạng bào tử và nấm men thì không dùng lâu dài.
  • Lưu ý không dùng men vi sinh khi bị viêm tụy cấp, phẫu thuật ruột...

 

Những sai lầm của cha mẹ khi trẻ kém hấp thu:

  • Khi trẻ thiếu hụt các dưỡng chất, kém phát triển làm cho cha mẹ lo lắng. Tuy nhiên, với những quan niệm của cha mẹ dưới đây không những tình trạng của trẻ không hề cải thiện mà trẻ ngày càng mệt mỏi, ốm yếu, tình trạng bệnh trầm trọng hơn.
  1. Đồng nhất men vi sinh với men tiêu hoá khi điều trị kém hấp thu ở trẻ:
  • Đây là một quan điểm sai lầm vì trên thực tế men vi sinh với thành phần chủ yếu là các vi khuẩn có ích như lactobacillus, bacillus subtillis, clostridium butyricum... Men vi sinh chỉ có tác dụng giúp cân bằng hệ vi khuẩn đường ruột, ngăn chặn sự tăng sinh của các vi khuẩn gây bệnh tiêu hoá. Còn men tiêu hoá là hỗn hợp các Enzyme khác nhau như amylase có tác dụng tiêu hóa chất bột, protease có tác dụng tiêu hóa chất đạm và lipase có tác dụng tiêu hóa chất béo từ thực phẩm chúng ta ăn vào. Dưới tác dụng của các Enzyme tiêu hóa này, thức ăn được phân rã trở thành dạng nhũ tương để nhung mao ruột có thể dễ dàng hấp thu vào máu, nuôi dưỡng cơ thể.
  • Trẻ nhỏ với hệ tiêu hóa chưa phát triển hoàn chỉnh là đối tượng hay gặp rắc rối nhất về đường tiêu hóa. Các Enzyme tiêu hóa được tiết ra ít, chưa đủ để thức ăn được tiêu hóa hoàn toàn. Điều này gây ra các triệu chứng như bị đầy hơi, chướng bụng, ăn vào lại ói ra, ăn không tiêu đặc biệt là chứng bệnh kém hấp thu nên việc dùng men tiêu hoá để bổ sung lượng Enzyme còn thiếu hụt là hoàn toàn cần thiết.
  1. Tăng cường bổ sung dưỡng chất khi con kém hấp thu:
  • Thay vì thay đổi chế độ ăn uống phù hợp như chia bữa ăn nhỏ hơn, thay đổi khẩu phần ăn, thức ăn được nấu loãng hơn…và uống thêm Enzyme cần thiết thì nhiều bậc cha mẹ lựa chọn tăng cường tẩm bổ cho con bằng cách bắt trẻ ăn thật nhiều các dưỡng chất, uống thật nhiều thuốc bổ và các loại sữa...

Đây là một quan điểm hết sức sai lầm.

  • Cơ thể trẻ ngoài việc đào thải phần lớn các chất bổ trên ra ngoài một cách lãng phí thì cơ thể trẻ còn gây những phản ứng phụ dẫn tới các bệnh tiêu hoá khác làm ảnh hưởng tới cả thể lực và trí tuệ của trẻ.
  1. Tình trạng kém hấp thu sẽ tự hết khi trẻ lớn:
  • Nhiều bậc cha mẹ quan niệm rằng thiếu Enzyme tiêu hoá là do cơ thể trẻ còn nhỏ, chưa tiết đủ hàm lượng Enzyme cần thiết dẫn tới kém hấp thu, khi trẻ lớn, cơ thể phát triển đầy đủ thì chúng bệnh trên tự hết.
  • Đúng là Enzyme tiêu hóa là do cơ thể tự sản sinh, nhưng điều đó không có nghĩa là chúng ta hoàn toàn để cho cơ thể tự điều tiết nhất là trong những trường hợp bệnh lý như trẻ do  thiếu các Enzyme kéo dài dẫn đến kém tiêu hóa, kém hấp thu. Và hậu quả tiếp theo là suy dinh dưỡng nặng hơn, giảm khả năng  miễn dịch làm trẻ  dễ mắc các bệnh nhiễm khuẩn…
  • Như vậy, trẻ sẽ rơi vào  vòng luẩn quẩn: tiêu hóa kém – suy dinh dưỡng, miễn dịch kém. Hệ tiêu hóa kém mà trong đó có thiếu Enzyme tiêu hóa còn có thể làm trẻ dễ nhiễm khuẩn. Nếu không bổ sung lượng Enzyme kịp thời thì tình trạng của trẻ ngày càng nguy kịch.

 

 

VÀI TRÒ CỦA ENZYME VỚI SỨC KHỎE

 

Enzyme (men tiêu hóa) là các hợp chất protein vốn rất cần thiết cho cơ thể để thực hiện các quá trình tiêu hóa, chuyển hóa, sử dụng năng lượng và hàng loạt chức năng khác

  • Sự thiếu hụt Enzyme thường xảy ra khi chúng ta bước vào tuổi xế chiều và gây ra hàng loạt triệu chứng “dở khóc dở cười” mà “đau khổ” nhất là các triệu chứng mệt mỏi.

 

 

Có bao nhiêu loại Enzyme?

  • Enzyme là những chất xúc tác cho những phản ứng sinh hóa diễn ra trong cơ thể. Có nghĩa là Enzyme sẽ giúp cơ thể phá vỡ, xây dựng và tái thiết một loạt hợp chất hóa học trong cơ thể. Những loại Enzyme chính mà cơ thể tạo ra bao gồm các loại Enzyme tiêu hóa và những Enzyme cần cho sự chuyển hóa. Các loại Enzyme tiêu hóa hiện diện trong bộ máy tiêu hóa nhằm giúp cơ thể tiêu hóa thực phẩm. Trong khi đó , các loại Enzyme chuyển hóa sẽ giúp cơ thể tổng hợp năng lượng và sử dụng năng lượng. Những năng lượng này rất quan trọng cho cơ thể vì chúng sẽ giúp chúng ta suy nghĩ, hít thở, chuyển động… Trong cơ thể, Enzyme được tạo ra từ một số dạng tế bào và sự tạo ra Enzyme cũng đòi hỏi một số năng lượng.

Khi Enzyme bị thiếu hụt

  • Sự thiếu hụt các loại Enzyme tiêu hóa sẽ làm giảm hoặc vô hiệu hóa sự phân giải thực phẩm thành những loại đường đơn, các axít amino và các axít béo vốn có nhiệm vụ tạo năng lượng cho cơ thể và giúp chúng ta có cảm giác tràn trề sức sống. Những loại thực phẩm ăn sống như trái cây, rau cải có chứa sẵn Enzyme của riêng chúng. Khi vào cơ thể, các loại Enzyme này chỉ cần được “kích hoạt” bằng cách nhai các loại thực phẩm kể trên, vì vậy những loại thực phẩm này tiêu hao các loại Enzyme tiêu hóa của cơ thể ít hơn, đồng thời giúp cơ thể tiết kiệm được năng lượng.
  • Các nhà khoa học Hà Lan đã công bố một bản nghiên cứu được đăng trên chuyên san Medical Hypotheses năm 2000, theo đó, sự thiếu hụt Enzyme sẽ gây ra các triệu chứng mệt mỏi kinh niên và đề nghị những bệnh nhân bị mắc chứng mệt mỏi kinh niên cần được xét nghiệm, chẩn đoán xem họ có bị thiếu hụt Enzyme hay không.
  • Ngoài sự mệt mỏi kinh niên, sự thiếu hụt Enzyme còn dẫn đến những hệ lụy khác cho sức khỏe, chẳng hạn như trào ngược dạ dày thực quản, khó tiêu, đầy hơi, táo bón, nhức đầu, các rối loạn về ruột, xơ vữa động mạch, cholesterol cao, yếu cơ và nguy hiểm nhất là sự suy giảm chức năng hoạt động của các cơ quan trong cơ thể.

Enzyme… không cánh mà bay!

  • Có rất nhiều nguyên nhân gây thiếu hụt Enzyme. Nguyên nhân hàng đầu là do sự lão hóa. Theo các nhà nghiên cứu y học, sự sản xuất Enzyme trong cơ thể sẽ suy giảm mỗi năm 1%. Sự sản xuất Enzyme đòi hỏi cơ thể phải tiêu hao năng lượng và lượng Enzyme được sản xuất cũng phụ thuộc vào giá trị pH trong cơ thể. Khi lớn tuổi, sự cân bằng axít – kiềm trong cơ thể cũng trở nên khó khăn, vì vậy mà lượng Enzyme được sản xuất cũng suy giảm đáng kể.
  • Trong cuộc sống công nghiệp hiện đại ngày nay, thực phẩm mà chúng ta đưa vào cơ thể đã mất đi một số Enzyme quý giá. Thực phẩm nướng, chiên ở nhiệt độ cao hoặc luộc quá chín sẽ làm lượng Enzyme bị thất thoát. Thực phẩm nấu nướng trong lò vi sóng (microwave) cũng sẽ làm hao gầy Enzyme tự nhiên. Những yếu tố khác làm suy giảm Enzyme trong cơ thể bao gồm cuộc sống căng thẳng, rượu bia, khói thuốc, môi trường đôc hại…

Để không bị mất Enzyme

  • Để bảo đảm Enzyme không bị “rút ruột” thì ngoài việc chú trọng việc ăn uống, không sử dụng rượu, bia thái quá, chúng ta đừng dây dưa với khói thuốc, tránh căng thẳng quá độ, rèn luyện thân thể thường xuyên. Chỉ cần một thay đổi nhỏ trong lối sống, bạn có thể bảo tồn lượng Enzyme cần thiết cho cơ thể. Một thay đổi nhỏ nhưng lợi ích vô biên, chẳng khác nào đem vài ba trái ớt hiểm đi đổi với cả núi hồ tiêu.

 

 

CẦN BỔ SUNG ENZYME TIÊU HÓA NHƯ THẾ NÀO CHO THÍCH HỢP

 

Ngay cả khi có một chế độ ăn uống lành mạnh, bạn cũng có nguy cơ không hấp thụ được hết được những chất dinh dưỡng và các axit amin quan trọng hòa tan trong chất béo để có một sức khỏe tối ưu.

 

  • Điều này xảy ra là do tuổi tác khiến cơ thể suy giảm tiết ra các men tiêu hóa để chuyển hóa thức ăn thành những chất dinh dưỡng dễ hấp thụ hơn. May mắn là, các nghiên cứu cho thấy rằng bằng cách bổ sung đúng hỗn hợp Enzyme tiêu hóa, những người lớn tuổi có thể duy trì được khả năng tiêu hóa của họ. Điều đó sẽ giúp tiêu hóa tốt hơn, giảm các bệnh ở đường tiêu hóa và tăng hấp thu các chất dinh dưỡng quan trọng như vitamin K, D và Omega-3.
  • Nhược điểm của việc bổ sung nhiều Enzyme tiêu hóa là chúng có chứa Amylase, sẽ tạo điều kiện chuyển hoá nhanh chóng thức ăn tinh bột thành Glucose và hấp thu nhanh chóng. Điều đó đáng lo là phần lớn người già mới bắt đầu ăn kiêng sau khi xét nghiệm có lượng đường trong máu đã tăng lên.
  • Đã có rất nhiều tài liệu nghiên cứu được công bố về tăng nguy cơ bệnh tim mạch, ung thư, suy thận, tiểu đường và các bệnh về mắt do có lượng đường cao hơn mức cho phép trong cơ thể. Những người đang mắc một số bệnh (như viêm tụy) sẽ có nhiều lợi ích từ bổ sung Enzyme tiêu hóa có chứa Amylases.
  • Tuy nhiên, đối với người già, tốt hơn hết là nên dùng công thức Enzyme tiêu hóa để tiêu hóa tốt Protein, chất xơ, và chất béo có lợi, nhưng không chuyển hóa tinh bột thành đường làm hấp thu nhanh chóng.

 

Một vài vấn đề về chế độ ăn uống hiện đại

  • Hầu như tất cả các loại thực phẩm chúng ta ăn đều không thể tự hấp thu vào trong máu mà cần có sự tác động của các Enzyme hoạt tính giúp chuyển hóa thức ăn thành các chất dinh dưỡng quan trọng. Nếu không có các Enzyme này phá vỡ các liên kết trong thực phẩm, thức ăn sẽ không tiêu và đi xuống ruột già, dẫn đến đầy hơi, tiêu chảy và bị chứng co thắt đại tràng.
  • Thêm vào đó, tồi tệ hơn cả việc khó chịu, thức ăn khó tiêu hóa còn góp phần khiến những người lớn tuổi phải đối mặt với tình trạng suy dinh dưỡng với biểu hiện như: chán ăn, ăn không ngon và giảm cơ bắp và thay đổi lượng chất béo trong cơ thể. Ngoài ra, một số vấn đề khi sức khỏe răng miệng đã kém đi như đeo răng giả có thể gây cản trở việc nhai thức ăn, đặt thêm gánh nặng cho các Enzyme tiêu hóa trong cơ thể.
  • Đó là lý do bổ sung các Enzyme quan trọng không chỉ cho sức khỏe tiêu hóa, mà còn tốt cho sức khỏe nói chung. Nếu chúng ta ăn theo một chế độ ăn uống toàn đồ tươi sống, chúng ta sẽ không cần bổ sung Enzyme tiêu hóa. Thực phẩm tươi sống có chứa các Enzyme riêng của mình để kích thích quá trình tiêu hóa.
  • Bởi vì chế độ ăn uống hiện đại chủ yếu là gồm các thực phẩm đã nấu chín, thực phẩm chế biến sẵn, cơ thể chúng ta cần phải dựa gần như hoàn toàn vào các Enzyme tiêu hóa tự nhiên. Vấn đề là khi con người già đi, cơ thể sẽ sản xuất ra ít Enzyme cần thiết cho tiêu hóa hoạt động tốt, khiến thức ăn tiêu hóa khó khăn hơn.

 

Bằng chứng về tiêu hóa khi bổ sung các Enzyme

  • Việc bổ sung các Enzyme tự nhiên trong chế độ ăn uống không phải là một ý tưởng mới. Từ hơn 70 năm trước, tầm quan trọng của các Enzyme trong thực phẩm sống đối với dinh dưỡng trong cơ thể con người đã được các nhà khoa học công nhận. Họ lưu ý rằng việc bổ sung các Enzyme có thể khôi phục chức năng tiêu hóa thức ăn trong dạ dày nhanh chóng, giống như quá trình tự tiêu hóa khi con người ăn thực phẩm tươi sống.
  • Việc bổ sung các Enzyme tiêu hóa cho những người bị bệnh tiêu hóa mãn tính khác nhau đã có từ rất lâu. Người bị xơ nang có thể dùng Enzyme tuyến tụy để chuyển hóa Protein, chất béo, và các chất dinh dưỡng khác mà họ không thể tự tiêu hóa. Bệnh nhân bị viêm tụy mãn tính có thể sử dụng Enzyme Lipase để giúp tiêu hóa chất béo.
  • Nhưng có bằng chứng cho thấy cho thấy rằng ngay cả khi bạn không bị thiếu hụt Enzyme cụ thể, việc bổ sung với các Enzyme tiêu hóa hữu ích cũng sẽ có ích đối với cơ thể.

Protease:

  • Enzyme tiêu hóa Protein gọi là Protease được tạo ra một cách tự nhiên từ tuyến tụy và đưa vào ruột non thông qua một ống ngắn. Bổ sung Protease giúp giảm bớt gánh nặng khi cơ thể sản xuất các Enzyme phức hợp riêng.
  • Nghiên cứu cho thấy động vật được bổ sung Protease sẽ được tăng cường chức năng tiêu hóa. Một lý do quan trọng khi bổ sung Protease là để giảm nguy cơ phản ứng không dung nạp một số loại thực phẩm như Protein ở thịt, Gluten (từ lúa mì) và Casein (từ sữa). Cấu trúc của các phân tử thức ăn làm cho chúng đối kháng với các hoạt động hạn chế của Enzyme trong đường tiêu hóa người già.
  • Khi mức độ tiêu hóa Protein trong đường ruột thấp, chúng có thể gây viêm và chứng co thắt, sinh nhiều chất nhầy quá mức, và thậm chí chảy máu. Hàng triệu người đã mắc chứng không dung nạp Gluten hoặc không dung nạp Protein sữa. Việc bổ sung các Protease có thể giúp giảm bớt sự khó chịu đó.
  • Những người đã cao tuổi bổ sung Enzyme Protease sẽ có ích lợi lớn để tăng tốc độ tiêu hóa Protein. Các nhà khoa học đã từng đề cập đến vấn đề tiêu hóa Protein nhanh và chậm, cho thấy cách các axit amin nhanh chóng được sản sinh từ Protein trong ruột và cách chúng được hấp thu hoàn toàn vào máu, và tạo ra các Protein mới trong cơ thể sau một bữa ăn đạt hiệu quả.
  • Do tuổi tác cao, khiến suy giảm sản xuất Enzyme và mất khả năng nhai kỹ thức ăn, dẫn đến những người lớn tuổi cũng mất khả năng tiêu hóa nhanh các Protein bao gồm thịt và Protein trong các sản phẩm sữa. Điều này khiến những người lớn tuổi có nguy cơ lớn kém hấp thụ Protein và suy dinh dưỡng.
  • Ngoài ra, đối với người lớn tuổi, việc bổ sung thêm Enzyme tiêu hóa Protein có thể giúp họ chuyển đổi các loại thực phẩm thường có chứa Protein chậm tiêu hóa như Protein sữa, casein khiến chúng nhanh chóng bị phá vỡ. Ý tưởng này dựa trên nghiên cứu cho thấy Protein trước khi tiêu hóa đã chia nhỏ thành các axit amin, kết quả là tìm thấy sự xuất hiện nhanh chóng và đầy đủ của các axit amin hấp thu vào máu, tạo thành những Protein mới trong cơ thể khỏe mạnh.
  • Cuối cùng, đối với các vận động viên sử dụng Protein bổ sung, việc thêm một hỗn hợp Enzyme tiêu hóa Protein sẽ giúp họ có đủ khả năng tiêu hóa Protein hoàn thiện hơn, lượng Protein đó được hấp thụ tốt hơn. Điều đó rất quan trọng, bởi vì nồng độ quá cao của Protein trong đường tiêu hóa có thể áp đảo khả năng phá vỡ Protein của các Enzyme tiêu hóa do cơ thể tự cung cấp.

 

Lipase:

  • Lipase là những Enzyme giúp tách biệt chất béo thành các axit béo đơn. Bổ sung Lipase thúc đẩy tiêu hóa chất béo tốt hơn bình thường ở những người bị bệnh tuyến tụy. Ngay cả khi không xác định có bị rối loạn tuyến tụy hay không, việc bổ sung Lipase vẫn sẽ đem lại lợi ích cho cơ thể.
  • Một vai trò quan trọng nữa là Lipase giúp tạo điều kiện cho sự hấp thụ các chất dinh dưỡng quan trọng tan trong chất béo như axit béo Omega- 3, vitamin D, vitamin K, Lutein, và Gamma Tocopherol (Vitamin E).

 

Amylase:

  • Enzyme tiêu hóa tinh bột của con người bình thường được gọi chung là Amylase.
  • Amylase phá vỡ các liên kết giữa các phân tử đường trong tinh bột, giải phóng đường để hấp thụ ngay lập tức. Lượng đường tăng nhanh chóng do chuyển hóa từ tinh bột sau mỗi bữa ăn có nguy cơ làm tổn hại cơ tim và mạch máu. Do đó, phần lớn những người khỏe mạnh không có nhu cầu bổ sung Amylase.
  • Trong thực tế, việc ức chế Amylase đóng một vai trò hữu ích trong cuộc chiến chống tăng lượng đường và béo phì.

 

Cellulase:

  • Cơ thể con người không có các Enzyme tiêu hóa để chuyển hóa Cellulose (chất xơ không hòa tan), hoặc chất xơ thực vật, là một thành phần có trong bông cải xanh và các loại rau khác, chúng đi qua đường ruột mà không được tiêu hóa bởi các Enzyme.
  • Điều gì sẽ xảy ra khi ăn các loại thực phẩm tươi sống có Cellulose chúng sẽ chuyển xuống ruột già, phân hủy Cellulose thành các phân tử, sau đó là lên men? Quá trình lên men này hút chất nước vào ruột già, có thể làm chướng bụng và đầy hơi, điều này xảy ra với rất nhiều người ăn các loại rau tốt như bông cải xanh.
  • Để ngăn ngừa các biến chứng liên quan đến chất xơ, cần bổ sung các Enzyme tiêu hóa Cellulose như Cellulase, Hemixenlulaza, Phytase, Beta- Glucanase , Pectinase và Xylanase có thể chuyển đổi Cellulose thành các phân tử nhỏ hơn, dễ dàng hơn cho việc di chuyển qua đường ruột. Kết quả là sự tiêu hóa của các sợi thực vật vốn khó khăn sẽ trơn tru hơn và tăng hấp thu các hợp chất có lợi cho sức khỏe trong thức ăn từ thực vật.
  • Bổ sung Enzyme tiêu hóa Cellulose sẽ giúp phá vỡ các sợi thực vật, chúng được tìm thấy trong bông cải xanh, chúng cũng không sinh ra các loại đường tự do nên không gây tăng Glucose sau bữa ăn. Bổ sung Enzyme tiêu hóa Bổ sung Enzyme tiêu hóa xuất hiện như một giải pháp tự nhiên cho nhiều vấn đề tiêu hóa liên quan đến lão hóa.

 

Lactase và β-galactosidase:

  • Khi nạp vào cơ thể đường lactose từ thực phẩm như sữa chẳng hạn, cơ thể sẽ tiết ra enzyme giúp phân hóa đường lactose thành hai loại đường khác nhau là đường glucose và đường galactose có ích cho cơ thể. Phản ứng thủy phân lactose tạo ra glucose và galactose được xúc tác bởi enzymes lactaseβ-galactosidase.
  • Khi cơ thể không có khả năng tiêu hóa đường sữa (lactose) vì thiếu enzyme, Lactose chưa được tiêu hóa xuống đến ruột già, thành phần này tương tác với vi khuẩn ruột và gây ra các triệu chứng. Đây gọi là không dung nạp Lactose.
  • Bất dung nạp lactose có thể di truyền, do nguyên nhân tuổi tác hoặc là hệ quả của các rối loạn tiêu hóa.
  • Các triệu chứng thường gặp của bất dung nạp lactose bao gồm chướng bụng, đầy hơi, nôn và tiêu chảy. Các triệu chứng này xuất hiện từ 30 phút đến 2 giờ sau khi dùng thực phẩm có lactose.

 

Pepsin:

  • Là enzym tiêu hóa protid được bài tiết dưới dạng chưa hoạt động là pepsinogen. Trong môi trường pH < 5,1, pepsinogen được hoạt hóa thành pepsin hoạt động. Nó phân hủy trực tiếp protein thành từng chuỗi polypeptid dài ngắn khác nhau.
  • Pepsin được sản xuất trong dạ dày và là một trong những enzym tiêu hóa chính trong hệ thống tiêu hóa của con người, có vai trò quan trọng tiêu hóa các protein của thức ăn.
  • Pepsin là một trong ba protease chính của hệ thống tiêu hóa con người, hai chất còn lại là chymotrypsin và trypsin. Trong quá trình tiêu hóa, các enzyme này có nhiệm vụ cắt đứt liên kết giữa các axit amin, chúng phá vỡ các cấu trúc protein thức ăn thành các phần nhỏ hơn, tức là các peptide và axit amin, để có thể dễ dàng hấp thụ dinh dưỡng bởi ruột non. 

 

Tinh chất men bia tươi:

  • Tinh chất men bia tươi bổ sung các acid amin và khoáng chất cần thiết cho cơ thể. Trong thành phần có khoảng 20 tỷ tế bào sống Saccharomyces cerevisiae/1g, 16 - 20 acid amin, 17 vitamin, 14 muối khoáng. Nó được xem là loại thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao và là véc tơ dẫn đường cho sự hấp thu các loại vitamin khác vào cơ thể. Đây là nguồn bổ sung các axit amin và vitamin phổ biến nhất trong các sản phẩm thực phẩm chức năng hiện nay.
  • Men bia cũng giúp tái tạo những vi khuẩn cần thiết cho sự tiêu hóa ở đường ruột, thường được dùng cùng lúc hay sau một đợt điều trị bằng kháng sinh, hoặc khi bị loạn khuẩn ruột. Men bia còn có tác dụng lên da, tóc và móng.

Bài viết liên quan